2016-04-18 12:14:51

1/ Cách cải tạo ao như thế nào cho đảm bảo ?

Dọn sạch các chất hữu cơ ra khỏi ao (nạo vét đáy, nhặt rác vv..). Rào lưới ngăn cua. Dâng nước đầy, ngâm súc rửa ao khoảng 2-3 ngày để thau phèn, đẩy các chất bẩn. Làm liên tục 2-3 lần cho đến khi sạch ao thì thôi. Công việc này thường tiến hành trước khi thả tôm khoảng 1 tháng. Phơi ao cho se đáy, sau đó cày lật, bón vôi, phơi đáy 10-15 ngày trước khi lấy nước gây màu, lượng vôi bón tuỳ thuộc pH đất. Sau đó bừa đáy, làm phẳng. Có thể bón phân NPK (20-20-0) 200-300kg/ha nếu đáy xấu (nghèo dinh dưỡng). Sau đó lọc nước, xử lý nước, sau 5-7 ngày tiến hành gây màu theo một trong hai phương pháp vô cơ hoặc hữu cơ. Chú ý gây màu trước khi thả tôm 1-2 tuần, không để quá lâu tảo tàn hoặc tảo đáy phát triển, tốn công cải tạo gây màu lại.

2/ Phương pháp cải tạo ao trên nền đất cát và ao bị nhiễm phèn tiềm tàng, ao nuôi ở vùng thấp không nạo vét phơi khô được như thế nào ?

Đối với vùng đất phèn tiềm tàng hoặc ao không thể nạo vét, phơi khô thì áp dụng phương pháp cải tạo ướt, như sau. Dùng máy bơm, xả nước thật mạnh xuống đáy cho chất thải nổi lên và khí độc bay hơi hết. Nếu có ao xử lý (5% diện tích) hoặc khu chờ xử lý thì bơm chất thải đó lên, sau đó chờ phơi khô làm phân bón cho nông nghiệp (lúa, ngô). Nếu không có ao xử lý, phải chờ con nước xuống, bơm xả hết các chất thải này ra kênh cho thuỷ triều cuốn đi. Chú ý việc này làm cần có sự thông nhất của các hộ xung quanh. Sau khi xả nước, dùng men vi sinh như BFR2, Bacciluss 1070 để cải tạo, sau đó gây màu, thả nuôi. Tuy nhiên phương pháp này rất tốn kém, chỉ áp dụng khi ở tình trạng bất khả kháng. Về nguyên tắc ao nuôi thâm canh phải phơi khô, ao nuôi quảng canh nếu dùng men vi sinh để cải tạo sẽ không kinh tế. Với vùng đất nhiễm phèn, cần phủ cát dày 30-40cm để hạn chế xì phèn. Đồng thời bên ngoài ao phải đào mương tiêu phèn rộng 40-50cm, sâu hơn đáy 40-50cm để ép phèn từ đáy ra ngoài. Nếu nuôi QCCT trong diện tích nhỏ (2) hoặc ao rộng mà độ sâu trung bình thấp 

Lưu ý: Tất cả các loại dạng ao trên đều không thuận lợi cho nuôi tôm công nghiệp nó đòi hỏi đầu tư lớn, khó quản lý màu nước và sức khoẻ tôm nuôi.

3/ Có 2 phương pháp gây màu hữu cơ và vô cơ, xin cho biết và giải thích sự khác biệt ?

1. Phương pháp gây màu vô cơ: 

Dùng phân URE (45.0.0) 10-20 kg/ha và NPK (20.20.0) 20-30 kg/ha. Hoà tan phân vào nước, sau đó tạt khắp mặt ao. Bón phân vào 9-10h sáng, lúc trời nắng. Nếu có máy quạt khí thì chạy khoảng 2h sau khi bón sẽ giúp phân hoà tan nhanh hơn trong nước.

2. Phương pháp hữu cơ: 

Cách 1: Dùng 10-12 kg cám gạo mịn, 1,5kg bột cá và 0.5kg bột đậu tương (đậu nành). Đậu nành và cám gạo rang chín, sau đó nấu với bột cá, để nguội và lọc bỏ phần bã, lấy phần nước tạt đều khắp 1ha mặt ao. Có thể bổ xung thêm 1-2 lít nước mắm để xúc tác quá trình lên màu. 

Cách 2: Dùng phân gà hoặc phân bò khô trộn với vôi CaCO3 theo tỷ lệ 3 phân: 1 vôi. Liều lượng 7kg phân gà hoặc 10kg phân bò cho 1ha ao. Cách dùng: Phun kỹ 1 lít Formol vào phân gà (hoặc bò khô), ủ kỹ trong 24h sau đó trộn đều với vôi và rải khắp mặt ao. Điều quan trọng là bón phân khi nước cạn hoặc chỉ còn một ít nước ở đáy ao. Sau đó, mỗi ngày thêm khoảng 10-20cm nước vào ao. Sau một tuần, ao sẽ đạt mức nước cần thiết để nuôi tôm và nước cũng có màu thích hợp.

Không nên cho nước vào đầy ao ngay sau khi bón phân hoặc cho nước vào đầy ao rồi mới bón phân vì sẽ làm loãng phân và nước sâu quá làm tảo khó phát triển. Tuy nhiên, cũng không nên giữ mức nước thấp dưới 0.5m lâu hơn một tuần vì sẽ làm rong đáy (rong nhớt) phát triển dày đặc.

4/ Khi nào phải gây màu nước? Màu nước như thế nào là tốt cho tôm? Các biện pháp nào để duy trì màu nước ?

Màu nước vàng nâu là tốt nhất. Gây màu được thực hiện đầu vụ nuôi, trước khi thả tôm; khi nước bị mất màu và có thể chủ động gây màu trong ao chứa trước để cấp cho ao nuôi khi cần thiết. Để ổn định (duy trì) màu nước bà con cần lưu ý: Định kỳ quan sát màu nước và bón phân hợp lý. Định kỳ dùng men vi sinh Aquabac, BRF2 vv..để bón xuống ao, thúc dẩy vi khuẩn có lợi phát triển. Định kỳ 10 ngày bón vôi nông nghiệp (CaCO3) hoặc Dolomite, mỗi lần 10-20kg/ha sau đó có thể bổ sung đường cát 0.5-1 kg/1000m3 nước. Thay nước khi tảo dày, gây lại màu khi tảo tàn.

5/ Tôi nuôi tôm sú thâm canh (công nghiệp) (25 con/m2), sau 50 ngày thả, màu nước chuyển xanh đậm, độ trong chỉ đạt 20cm, pH dao động từ 8.4-9.2, cách nào để làm thưa tảo và hạ pH trong khi không thay được nước?

Ngừng bón các loại vôi. Dùng Formol hoặc đường cát hoặc Acid acetic với nồng độ như sau: Formol 6-10 lit/ha, liên tục mỗi ngày từ 9-10h sáng. Dùng ở 1/3 ao cuối gió cho đến khi pH < 8.5. Đường cát: 2-5 kg/1000 m3, lúc 9-10h liên tục đến khi pH < 8.5. Acid acetic 0.5-2.0 lit/1000 m3 lúc 10-12h. Sau đó vớt xác tảo, Zeolite (100-200 kg/ha) để hấp thụ NH3, H2S ở đáy. Định kỳ sử dụng BRF2 và bón đường cát 0.5-1 kg/1000 m3 để gây lại màu. Nếu pH vẫn cao hơn 8.5 thì không cần bón vôi, nếu thấp hơn dùng CaCO3 hoặc Dolomite 20-30kg/ha/lần. Nếu tảo dày, pH < 8, dùng BKC 0.4-0.6 mg/m3 ( 0.4-0.6 lít/1000 m3) ở 1/3 ao cuối gió, sau đó vớt hết xác tảo.

6/ Tôi nuôi tôm sú quảng canh (bán công nghiệp) cải tiến (8 con/m2), không có ao chứa, sau khi nuôi 30 ngày màu nước bình thường. pH dao động từ 7.1-7.5 (không quá 0.5 ngày đêm). Như vậy có bình thường không? Có cách gì cải thiện tốt hơn không ?

Nuôi tôm sú pH 7.1-7.5 là hơi thấp, tuy nhiên không đáng ngại lắm. Màu nước sẽ hơi trong, chưa đủ mật độ tảo cần thiết cho tôm. Nên hoà tan 15-20kg vôi nung CaO vào nước, bón cho 1000 m3 hoặc 30-40 kg vôi tôi Ca(OH)2 cho 1000 m3 hoặc bón 100-300kg CaCO3/ha, bón lúc 21h. Sau đó bón CaCO3 định kỳ 10 ngày lần, mỗi lần 15-20kg/ha kết hợp gây màu ổn đinh pH.

7/ Ao nuôi của tôi thiết kế trên nền đất cát. Nguồn nước cấp từ biển có độ mặn 30-35 ‰, Trong quá trình nuôi nước thường xuyên bị mất màu, đặc biệt là giữa vụ nuôi (sau 50 ngày tuổi). Vậy nguyên nhân vì sao và có cách gì giải quyết ?

Nguyên nhân: Do đất cát, đáy hấp thụ các muối dinh dưỡng tảo không có thức ăn để lên màu. Thay nước không thường xuyên, tảo chưa kịp lên màu. Nguồn nước cấp vào độ mặn cao, không có các chủng tảo làm thức ăn cho tôm. Giải pháp:Theo dõi các thông số có liên quan (pH, độ trong, màu nước, bọt khí). Nếu xuất hiện các bọt tạo váng và pH dao động quá 0.5 ngày đêm cần phải thay 10% nước sau đó bón vôi, gây màu (hữu cơ). Sau đó bón Dolomite: 50-100kg/ha/lần bổ xung đường cát: 0.5-1 kg/1000m3 cho đến khi ổn định màu, pH, độ kiềm. Nên thiết kế ao chứa đã gây.

8/ Ao tôm của tôi được xây dựng trên nền đất giàu sulffate acid (phèn tiềm tàng). Khoảng 2-3 tuần sau khi thả, khá nhiều tôm bị cong chân (dính chân) không thể rút khỏi vỏ khi lột, đặc biệt là sau mỗi trận mưa lớn. Có cách nào điều trị hiệu quả ?

Các dấu hiệu mô tả ở trên có liên quan đến pH và độ kiềm thấp. Thường xuất hiện ở các ao nuôi có độ mặn thấp hoặc nuôi tôm trái vụ vào mùa mưa. Acid từ bờ ao xả xuống sau mỗi trận mưa làm pH giảm, thậm trí ngay cả khi đáy ao đã được xử lý cải tạo tốt từ ban đầu. Giải pháp: cần kiểm tra chất lượng nước thường xuyên, nếu pH và độ kiềm thấp cần bón vôi tôi Ca(OH)2 trên bờ ao, 10-20 kg/m2 và bón vôi nông nghiệp CaCO3 200-300 kg/ha liên tục trong 2-3 ngày.

9/ Khi trời mưa nước ao đục, pH thấp nhiệt độ giảm mạnh bà con cần làm gì ?

Bón vôi Ca(OH)2 hoặc CaCO3 quanh bờ trước khi trời mưa. Rút nước tầng mặt sau đó bơm nước ao chứa sang (nếu có). Chạy máy quạt khí đều đặn tránh phân tầng nhiệt độ và độ mặn, pH. Bón vôi, tạo cân bằng pH và độ kiềm, gây màu, bón bổ sung men vi sinh. Kiểm tra vó, giảm 30-50% lượng thức ăn nếu tôm ăn không hết.

10/ Sau mỗi trận mưa rào vài ngày, thường thấy tôm nổi đầu. Nguyên nhân là gì ? Cách giải quyết ?

Mưa lớn thường liên quan đến sự giảm pH trong ao. pH giảm làm tăng tính độc của H2S, khiến tôm nổi đầu. Nếu pH giảm, trong nước không có H2S thì tôm sẽ không nổi đầu. Kiểm tra pH, nếu thấp phải bón 15-20 kg/ha Ca(OH)2 để tăng pH. Kiểm tra o xy hoà tan nếu thấp cần chạy hệ thống sục khí để bổ sung.

11/ Trong quá trình nuôi thấy xuất hiện ốc, cá và sứa trong ao, cạnh tranh thức ăn và tiết chất nhày. Có thuốc gì điều trị ?

Không có thuốc diệt ốc, sứa trong ao tôm, chỉ có cách phòng: Cải tạo ao thật tốt, bón vôi phơi khô ao, đảm bảo tiêu diệt hết ốc và trứng ốc. Lấy nước lúc nước lớn, sử dụng lưới lọc nước cẩn thận trước khi cấp vào ao. Túi làm bằng vải Cotton, may 2 lớp, chiều dài 8-10m, đường kính 0.6m. Để lắng ao trong 5-7 ngày cho trứng và ấu trùng nở ra hết sau đó, xử lý nước bằng Chlorine 10-15 (kg) lít/1000m3 hoặc Formol 20-30 lít/1000m3. Sau đó để chờ 24-48 h bơm sang ao nuôi, chú ý trước khi bơm phải bắt tôm vào thử đảm bảo các chất này đã phân huỷ hoặc bay hơi hết. Nếu trước khi thả phát hiện vẫn còn ốc trong ao phải xả nước xử lý lại đáy ao. Trong quá trình nuôi, nếu có ốc phải tìm cách vớt định kỳ (chú ý không để đục nước). Dùng vợt để thu sứa và dùng vó để bắt ốc bằng cách cho các thức ăn vụn (nhỏ ơn cỡ thức ăn của tôm) vào vó, chờ ốc vào ăn, vớt lên và bắt dần đi. Đánh Saponine 100-200kg/ha sau 2 tháng nuôi để phòng cá tạp, cá dữ cạnh tranh thức ăn của tôm.

12/ Biện pháp xử lý khi xuất hiện rong đáy trong ao như thế nào ?

Vớt sạch các váng tảo vì đó là bào tử sẽ sinh ra nhiều tảo mới. Rút đáy, thay nước từ ao chứa nếu có thể, dâng nước > 1m. Kiểm tra pH, nếu chưa đủ phải bón vôi đạt 7.5-8.5. Gây lại màu nước (xem phương pháp gây màu) Bón vôi Dolomite dể điều chỉnh độ kiềm đạt 80-150 ppm. Trong trường hợp không có nước để thay cần vớt hết váng tảo, sử dụng Zeolite 100 kg/ha để xử lý đáy. Zeolite sẽ hấp thụ các khí NH3, H2S, các khí này là thủ phạm gây độc cho tôm.

13/ Xin cho biết biện pháp xử lý khi tôm bị đốm trắng ? Muốn nuôi tiếp cần làm gì ?

Nếu tôm đã lớn và chết rất nhanh (5 con ở ngày thứ nhất, 20 con ở ngày thứ hai và nhiều hơn nữa ở ngày thứ ba) thì nên thu hoạch ngay. Sau đó đóng cống, xử lý Chlorine 10-15 ppm, ngâm ao 7-10 ngày sau đó mới được xả ra bên ngoài. Chú ý phải thông báo cho chính quyền, cán bộ khuyến ngư và các hộ khác biết khi có bệnh. Nếu tôm còn nhỏ, và bệnh đã thành dịch ở địa phương thì phải đóng cống và huỷ tôm bằng Chlorine 10-15 ppm, sau đó ngâm ao 7-10 ngày trước khi xả ra bên ngoài. Nếu tôm còn nhỏ, bệnh chưa thành dịch và mức độ nhiễm bệnh nhẹ nước phải duy trì trong ao và tiếp tục đếm số tôm chết. Nếu sau một tuần mà không có tôm chết thêm và còn nhiều tôm trong ao thì vẫn tiếp tục nuôi. Cần nhặt bỏ các tôm yếu, vớt tôm nổi tầng mặt, tôm dạt bờ đem đốt. Có thể dùng Formol 25 ppm để loại các con tôm yếu, tôm nhiễm bệnh (nếu có điều kiện), sau đó tiếp tục nuôi. Nếu tôm tiếp tục chết thì chờ đến khi chấm dứt, giữ thêm 14 ngày mới xả nước. Sau khi xả nước xong, phơi ao 14 ngày sau đó nạo vét bùn làm sạch đáy ao. Tiến hành cải tạo theo các bước sau (nếu muốn nuôi tiếp): Vớt sạch tôm chết, cua còng cáy ra khỏi ao. Dùng hoá chất để tiêu diệt mầm bệnh còn sót lại: Dùng 2-3 kg Chlorine (Ca(HCLO)2) hoà vào 50 lit nước, phun đều 1000m2 mặt đáy vào lúc sáng sớm. Hoặc 3-5 lit Formol, hoà vào 50 lit nước phun đều cho 1000m2 mặt đáy ao. Chú ý phun thật đều và phun kỹ các chân cống, chân cầu kiểm tra tôm và các chỗ cho ăn vào lúc sáng sớm. Hoặc Thuốc tím (KMnO4): 0.5-1.0 kg hoà vào 50 lit nước phun 1000m2 bề mặt ao vàolúc chiều tối. Nhặt sạch hết tôm, cua còng cáy chết (ngoi lên) sau khi xử lý thuốc. Cày bừa, bón vôi theo pH đất, phơi ao…sau đó lọc nước, xử lý, gây màu như bình thường. Nếu không muốn nuôi, sau khi nhặt hết tôm, cua còng cáy có thể dâng đầy nước ngâm xả ao cho đến khi sạch sẽ. Chờ vụ nuôi tới.

14/ Phòng các bệnh nhiễm khuẩn như thế nào ?

Phòng bệnh hơn chữa bệnh. Cách phòng bệnh tốt nhất là áp dụng các biện pháp kỹ thuật để tăng cường sức khoẻ và sức đề kháng của tôm thay vì sử dụng thuốc, hoá chất để phòng bệnh. Các biện pháp đơn giản nhất là thiết kế ao chứa, độ sâu ao nuôi > 1m, cải tạo ao thật tốt, chọn con giống khoẻ, sử dụng thức ăn chất lượng tốt, giữ được màu nước, bón vôi định kỳ, sử dụng các chất kích thích tăng trưởng, kích thích tôm ăn nhiều, sử dụng các chế phẩm sinh học làm sạch môi trường… Nếu nuôi bán thâm canh trở lên và nuôi tôm ở những vùng hay có bệnh xuất hiện có thể phải sử dụng BKC 0.5-0.7 lít/1000m3hoặc Mizuphor 100cc/1000m3/3 ngày liên tục để xử lý nước cấp trước khi bơm vào ao nuôi.

15/ Phòng trị các bệnh đóng rong, bám bẩn như thế nào ?

Formol 10-20 lit/1000m3 nước. BKC 0.5-0.7 lit/1000m3 nước.

16/ Phòng bệnh đốm trắng như thế nào ?

Kiểm ngiệm con giống trước khi thả, tránh thả tôm trong giai đoạn nhiệt độ thấp. Có ao chứa để xử lý, tránh việc lan truyền bệnh sang các hộ khác. Hạn chế thấp nhất còng cáy, cua, thức ăn tươi là tôm vào ao nuôi. Tiêu diệt ngay khi phát hiện tôm qua trong ao bị chết bằng cách chon hoặc đốt xác, không quăng ném ra ngoài kênh mương hoặc ao đầm hộ khác. Định kỳ xử lý Formol 20-30 lit//1000m3 nước vào các ngày nuôi 30, 45, 60 và vớt các tôm yếu dạt bờ.

Top