2016-02-16 10:21:18

Ô nhiễm liên quan đến ao nuôi tôm

Công nghệ nuôi tôm bắt đầu tư những năm 80 với việc phát triển kỹ thuật nuôi con giống nhân tạo một cách hiệu quả. Từ đó hoạt động nuôi tôm có sự chuyển đổi từ nuôi quảng canh, bán thâm canh sang nuôi thâm canh. Kỹ thuật nuôi thâm canh bao gồm:

- Tăng mât độ thả (trung bình 250,000 đến 500,000 con giống trên 1 ha)
- Sự phụ thuộc lớn vào các trại nuôi con giống
- Phụ thuộc vào thức ăn chế biến
- Sử dụng hệ thống quạt khí
- Tăng chu kỳ trao đổi nước.

Càng tăng cường hoạt động nuôi thâm canh thì nhu cầu quản lý môi trường nuôi càng cần thiết. Mức độ hủy hoại môi trường nuôi bên trong ao nuôi và bên ngoài xuất phát từ các nguyên nhân sau:

- Mật độ nuôi cao
- Sử dụng nhiều thức ăn chế biến sẵn
- Các ao bố trí dầy đặc bên cạnh nhau dọc theo miền duyên hải
- Không có ao xử lý nước trước khi đưa vào ao nuôi
- Tăng chu kỳ thay nước
- Chu kỳ làm sạch ao chưa hiệu quả
- Mức độ bài tiết của con tôm tăng lên.

Ô nhiễm do việc sử dụng thuốc và các hóa chất trong nuôi tôm

Phần lớn sản phẩm dư thừa trong nuôi tôm đã tích tụ dưới đáy ao. Đây chính là nguồn gây nguy hại cho con tôm và cho hoạt động nuôi tôm. Lớp bùn đáy ao này rất độc, thiếu ôxy và chứa nhiều chất độc như ammonia, nitrite, hydrogen sulfide. Con tôm luôn có xu hướng tránh khỏi vùng này và tập trung vào những khu vực sạch sẽ hơn. Do việc tập trung vào một vùng sẽ làm giảm bớt diện tích cho ăn, cũng như tăng tính cạnh tranh trong khi ăn. Nếu như toàn bộ đáy ao bị dơ bẩn thì con tôm bị bắt buộc phải sống trong môi trường ô nhiễm. Lớp bùn dơ bẩn còn tác động lên nước trong ao nuôi làm giám chất lượng nước.

Chất lượng nước và chất lượng đáy ao dơ bẩn sẽ tác động trực tiếp tới con tôm. Con tôm luôn bị căng thẳng, thể hiện qua việc kém ăn, mức tăng trưởng giảm và dễ bị mắc bệnh do vi khuẩn như Vibriosis. Và dẫn đến việc tôm chết hàng loạt. Phần lớn các bệnh của con tôm đều có nguồn gốc từ môi trường mà chúng sinh sống.

Môi trường bên ngoài trại nuôi tôm, chất thải dơ bẩn thường không được quản lý tốt sẽ làm ảnh hưởng tới hệ sinh thái ven biển. Điều này không chỉ tác động lên môi trường đất mà còn lên các giá trị tài nguyên ven biển, bao gồm cả các trại nuôi tôm. Việc tái sử dụng ao bị ô nhiễm hay đổ đống ra môi trường xung quanh sẽ tạo điều kiện làm cho nguồn nước ô nhiễm và tác động lên các hoạt động ven biển.

Tại một số nơi hoạt động nuôi tôm đem lại kết quả rất tốt trong một vài năm, nhưng rồi bắt đầu một thời kỳ sa sút trầm trọng dẫn đến phá sản mà nguyên nhân chủ yếu liên quan các mầm bệnh trong môi trường nuôi. 

Thông thường nhà nông dùng kháng sinh để trị bệnh, nhưng việc đó không giải quyết được vấn đề cốt yếu. Hiện nay, việc áp dụng công nghệ sinh học và các chế phẩm sinh học để gìn giữ và cải thiện năng suất nuôi đã được chấp thuận rộng rãi như một phương thức chữa trị hiệu quả, rẻ tiền và tốt hơn nhiều so với việc sử dụng kháng sinh. Chế phẩm sinh học và việc quản lý cho ăn ở một mức độ lớn là một phương cách kiểm soát mầm bệnh trong các ao nuôi tôm. Chẳng hạn khi sử dụng vi khuẩn Bacillus sp. như chế phẩm sinh học đã tăng thời gian nuôi lên gấp đôi so với ao nuôi không sử dụng chế phẩm sinh học và bị nhiễm bệnh Vibrio harveyi. Tại ao có sử dụng chế phẩm sinh học thì mức phát sáng do vi khuẩn V. harveyi thấp hay gần như triệt tiêu và cho một kết quả thu hoạch rất tốt. Việc bổ sung thêm Bacillus sp. đã đem lại lợi ích cho tôm trong việc chống bệnh phát sáng (Vibriosis) và khỏe mạnh hơn và dẫn tới việc tăng sản lượng nuôi. Chế phẩm sinh học còn chứa axit lactic (Lactobacillus và Carnobacterium sp.) là một loại vi khuẩn hứa hẹn có tác dụng chống lại mầm bệnh và cung cấp một nguồn kích thích miễn dịch. Carnobacterium divergens là một loại chế phẩm sinh học tiềm năng khác có tác dụng làm giảm áp lực gây bệnh của vi khuẩn Vibrio anguillarum. Các lợi ích khác của chế phẩm sinh học bao gồm:

- Tăng cường vi thực vật đường ruột
- Cung cấp axit amino căn bản và vitamin từ vi thực vật đường ruột
- Tăng khả năng hấp thụ vitamin và chất khoáng
- Nâng cao hệ số tiêu thụ thức ăn
- Nâng cao năng suất và sản lượng
- Tăng số vụ nuôi
- Loại bỏ việc sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng
- Cải thiện môi trường nuôi giảm tỷ lệ mắc bệnh.

Nghiên cứu của Trung tâm Phát triển Thủy sản Đông Nam Á (SEAFDEC) cho thấy: Hiệu quả của chế phẩm men vi sinh dựa vào số lượng bào tử vi khuẩn tồn tại vào thời điểm mà chế phẩm men vi sinh được đem sử dụng tại ao nuôi. Như vậy vào thời điểm sử dụng trong ao phải có trên một tỷ bào tử vi khuẩn tồn tại trong một gram hay một mili lít thì sản phẩm mới có hiệu quả. Những chế phẩm men vi sinh có số lượng bào tử vi khuẩn thấp thường được đóng gói dạng lỏng. Bởi vì hệ số tồn tại của bào tử bị giảm đi nhanh chóng trong quá trình vận chuyển và lưu kho đối với các sản phẩm ở dạng lỏng, và chúng có thời hạn sử dụng dưới ba tháng.


Top