2016-04-23 16:45:51

1. Xây dựng ao

Ao nuôi tôm có hình dạng chữ nhật để thay, nước, chăm sóc và cho tôm ăn. Diện tích ao có thể từ 0,1-5 hạ, thích hợp 0,2-0,3 ha, độ sâu tùy vị trí đất ở từng nơi mà có mức nước thường xuyên l,2-l,5m. Đáy ao phẳng có độ nghiêng dần về nơi tiêu nước.

Cống bộng thuận lợi nhất là sử dụng ống nhựa PVG đường kính 0,3-0,5m làm bộng. Bộng đặt cao lấy nước mặt từ kênh cấp thoát nước vào, bộng đặt thấp bằng đáy ao dùng thoát nước. Hai bộng vào, một bộng ra hoặc một bộng vào một bộng ra cấp nước và thoát nước. Nơi không có điều kiện bộng dẫn nước đầu vào, thoát nước đầu ra mà nước ra vào chỉ một đầu thì đặt bộng sát đáy, cò co điều tiết lấy nước và thoát nước theo yêu cầu. Nơi có điều kiện xây dựng ao chứa nước lắng lọc để cung cấp nước cho ao ương và nuôi tôm, câu tạo ao ương gần ao nuôi tôm thịt.

2. Cải tạo ao

- Nếu ao cũ được sửa bờ, đập, bộng, nền đáy phẳng, có độ nghiêng về nơi rứt nước, sên vét hết sình bùn cây cỏ dơ, bón vôi, phơi đáy ao và bón phân chuồng,... Xảm các hang mối, diệt các loại địch hại của tôm, khơi thông nguồn nước vào và ra, ... như phần cải tạo ao mương đã nêu.

- Nếu là ao mới đào, cho nước vào rửa phèn 2-3 lần, bờ ao được sửa phẳng. Bón vôi bột đều ao, ao cũ 1-2 tấn/ha, ao mới 2-3 tấn/ha, phơi nắng ao 5-7 ngày, nếu còn sót các loại địch hại của tôm thì tiếp tục diệt. Trước khi cho nước vào qua lưới lọc kỹ, mức nước lây vào ao lm, bón phân gà, heo đã ủ 3-4 tấn/hả.

Có nơi dùng phân gà cho vào bao thả vào ao, từng thời gian làm động bao phân, nước phân ra gây màu nước tạo thêm thức ăn tự nhiên cho tôm thì sạch hơn. Sau 10 ngày lây nước vào, nước có màu xanh nõn lá chuối non là tốt, nếu không có màu nước phải bón thêm phân NPK 20-30 kg/ha, sau 5 ngày có thể thả tôm giống. Nếu còn sót cá tạp phải diệt bằng dây thuốc cá trước khi thả tôm giống 3 ngày.

3. Thả giống TCX

Chọn giống TCX khỏe mạnh, đồng cỡ, thả vào sáng 8-9 giờ, chiều 16-18 giờ, thả cách bờ 5-6m. Nếu ao cải tạo thật tốt có thể nuôi thẳng từ tôm bột lên tôm thịt. Nông trường Sông Hậu nuôi tôm bột 4,5 con/m2 ao thu được 1 tấn tôm/ ha/ vụ, hoặc qua ương tôm giống như trên đã nêu. Mật độ nuôi:

• Tôm bột: 10-12 tôm bột/m2.

• Tôm giống 2-3cm: 8-10 con/m2.

• Giống 4-6cm, 7-8cm: 6-8 con/m2.

Có thể đến 15 con/m2 ao như Thái Lan nuôi năng suất đạt 1800-6250 kg/ha/năm.

4. Thức ăn và cho ăn

- Nếu ao được cải tạo tốt, thức ăn tự nhiên phong phú, 15 ngày đầu chỉ cần sử dụng một nửa của lượng thức ăn cho ăn 20% so với trọng lượng tôm. Sau đó tiếp tục cho tôm ăn tham khảo bảng 5. Ngày cho ăn 2 lần, sáng 5-7 giờ: 30%, chiều 17-19 giờ: 70% lượng thức ăn. Thức ăn được rải đều ở nơi tôm sống.

Nếu sử dụng thức ăn tươi (ốc, cá tạp, cua, ...) cần tạo thức ăn vừa cỡ cho tôm ăn. Không để thức ăn dư, nhất là thức ăn tươi làm dơ nước, tôm sống không bình thường và chết. Thức ăn tinh, chọn thức ăn đã chế biến không quá 3 tháng, có mùi hấp dẫn, độ đạm 25-30%, độ tan trong nước sau 6 giờ. Thức ăn tự chế cũng có độ đạm tương ứng, có mùi hấp dẫn, chậm tan trong nước.

5. Quản lý chăm sóc tôm nuôi

- Giữ mức nước ở ao nuôi 1,2 m-1,5 m. Tháng thứ 2 trở đi phải thay nước ngày một lần, lượng nước 10-20% lượng nước ao, loại bỏ nước đáy ao, lấy nước mặt vào. Vào con nước rằm, ba mươi, lúc nước lớn thay 50-70% nước, lây nước mới vào. Nơi dùng bơm áp lực để thay nước, tùy chất lượng nước mà 7-15 ngày thay nước một lần.

- Kiểm tra sự phát triển của tôm và thức ăn của tôm: tôm mình sáng, không đóng rong, thức ăn có từ đầu đến đuôi là tôm ăn tốt. Thức ăn được cho vào sàn ăn hoặc đẩy xiệp ở đáy ao kiểm tra nếu còn dư thì giảm cho ăn. Nếu thức ăn dư mà đầu mình tôm không có thức ăn là thức ăn không thích hợp, cần thay đổi thức ăn. Tôm giảm ăn khi trời đang mưa, nước ao dơ, ao thiếu dưỡng khí, tôm đang lột, nhiệt độ quá cao quá thấp, thức ăn không thích hợp. Cách tính lượng thức ăn:

- Tỷ lệ sổhg của tôm (TLS):

TLS = Tchài x (Dao / Dchài) x Tthả

- Tổng khối lượng tôm có ở ao (P cả ao):

Pcả ao = Pchài x (Dao / Dchài)

- Trọng lượng trung bình của 1 tôm (PtbcT)

Trên cơ sở biết trọng lượng trung bình của 1 tôm, tỷ lệ tôm sống, tổng trọng lượng tôm có ở ao mà tính được lượng thức ăn cần cho tôm ăn.

- Nếu tôm ở mật độ cao phải sục khí cho tôm: mật độ 4 -5 con/m2 thì 1000m2 có một máy sục khí, quạt nước.

- Vùng nước có độ cứng thấp dưới 20mg CaCO3/lít, hàng tháng bón thêm đá vôi nghiền nhỏ 50 kg/ha.

Sự thay đổi pH ngày đêm không vượt quá 0,5. Nếu pH thâp hơn 7, bón vôi bột CaO với liều lượng 75-100 kg/ha. Vôi bột được bón thường xuyên 50 kg/ ha/ tháng để duy trì pH thích hợp và nền đáy ao tốt.

- Để duy trì chất lượng nước tốt, có thể thả 500- 1000 cá mè trắng/ ha ao.

- Nếu tôm nuôi vào 3 giờ đêm đến sáng tôm nổi đầu ở mé ao mà động không lặn là tôm thiếu dưỡng khí trầm trọng phải thay nước (nếu nước xấu), phải sục khí nếu mật độ quá cao. Nếu nền đáy ao dơ sinh ra nhiều chất độc tiêu hao dưỡng khí vào đêm phải hút các chất dơ ở nền đáy ao chủ yếu từ thức ăn dư mà có. Có thể dùng máy đặt trên thuyền có tu huýt dạng khe mỏ kéo lê trên nền đáy ao, chất dơ theo ông dẫn ra khỏi đáy ao. Nêu ao nuôi tôm có nhiều rong cỏ thủy sinh ban đêm tiêu hao nhiều dưỡng khí được loại bớt. Ao nuôi tôm có nước thay thường xuyên, nước sạch, có gió thổi làm xáo động nước giảm sử dụng quạt nước.

- Cần duy trì nhiệt độ nước ao nuôi tôm tôi hảo 28-32°c, nhiệt độ nước dưới 24° và trên 33°c tôm giảm ăn.

- Thay nước cần gắn với chu kỳ lột xác của tôm, làm sạch nước, kích thích tôm lớn nhanh, thay nước vào phải có độ trong trên 20cm. Nếu nước có nhiều bùn ảnh hưởng đến đời sống của tôm phải qua lắng lọc.

- Màu nước của ao nuôi tôm có màu nõn chuối non nhạt là tốt. Nếu màu sậm hơn, lượng tảo trên 500000 tế bào/ lít sẽ gây thiếu dưỡng khí về đêm. Nếu nước có màu đậm, có mùi là nước dơ, cần thay ngay.

- Tôm nuôi có thể lẫn cá dữ, địch hại tôm (rắn, lươn, ếch, nhái, chim,...) và cá tép tranh mồi ăn của tôm cần được diệt kịp thời bằng câu, lưới, dây thuốc cá, vv... Có nơi không dùng thuốc, mà cho người dùng lưới bén bắt cá tại ao.

- Tạo điều kiện để tôm lột xác bằng dùng hệ thống ông nhựa, ông tre dài 30cm, đường kính 4-5cm, cặp nẹp thành giàn, có 4 chân cắm cách đáy ao 0,3m để tôm vào lột xác, hoặc dùng chà tre bó chặt thả ở gần đáy ao.

- Thường xuyên kiểm tra lưới bịt bộng ở 2 đầu. Khi cần bí nước lại có thể bịt thêm bao nylon ở phía ngoài.

- Kiểm tra đập, bờ và chống trộm cắp tôm nuôi.

- Ghi chép các thông số có liên quan đến nuôi tôm để rút kinh nghiệm kịp thời.

6. Thu hoạch tôm nuôi

- Tôm nuôi sau 4-5 tháng cần thu tỉa tôm lớn (Tôm càng xanh) và tôm cái mang trứng. Tôm thu tỉa cung cấp cho yêu cầu thị trường, tôm còn lại mật độ vừa phải có cỡ lớn đồng đều nuôi tiếp sẽ lớn nhanh để thu hoạch tiếp.

- Trước khi thu toàn bộ, cần cho tôm lột xác đồng bộ, để khi thu hoạch tôm lột ít, giá trị tăng.

- Hạ nước ao xuống, dùng lưới kéo chắc chắn từng phần ao gạn tôm vào một phía để thu. Không được kéo nhiều lưới ở một nơi như thu cá, tôm dễ bị chết ở đáy ao. Khi khối lượng tôm trong ao giảm, rút bớt nước, kéo lưới tiếp sau đó bắt cạn. Nếu thu tôm gặp nắng nóng tôm dễ chết, cần dùng mảy phun nước sương trên ao để tôm giảm chết. Thu hoạch tôm đến đâu, có 3 cần xé để ở nơi thu, người thu tôm lựa tại ao theo loại tôm cho vào cần xé, chuyển nhanh cần xé đến vèo chứa từng loại tôm. Tại vèo chứa tôm có dòng nước sạch mát, tôm sạch và vẫn sống. Tôm đươc chuyển nhanh đến nơi tiêu thụ bằng thùng chứa có sục khí, tôm muối nước đá.



Top