Sản phẩm thay thế kháng sinh trong nuôi tôm
Đánh giá bài viếtViệc tìm kiếm các giải pháp thay thế kháng sinh trong điều trị bệnh ở tôm nuôi luôn cấp bách. Trong đó, sử dụng các thảo dược, thảo mộc được ghi nhận mang lại nhiều kết quả khả quan và là xu hướng tất yếu trong nuôi tôm hiện nay.
Kích thích tăng trưởng
Theo Citarasu (2010), các loại thảo mộc hoạt động như một chất kích thích tăng trưởng và miễn dịch, kháng khuẩn, chống nấm. Đã có một số sản phẩm thương mại trên thế giới được sản xuất từ các thảo mộc như stressol I và stressol II giúp làm giàu lượng Artemia nauplii, giúp tôm thẻ cỡ PL10 tăng tốc độ tăng trưởng, giảm stress đáng kể.
Nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới đã chỉ ra rằng, một số sản phẩm thảo dược được chiết xuất từ cây kỳ nham, gừng, cà gai ba thùy, xuyên tâm liên, phá cố chỉ, cỏ mực, hương nhu, cây Picrorrhiza, diệp hạ châu, dây thần thông… đều có tác động tích cực đến tôm như khả năng thúc đẩy tăng, giảm stress, bổ gan và chống vi khuẩn. Đặc biệt, chúng có những tác động nhất định lên tôm thẻ chân trắng. Livol (IHF 1000) – sản phẩm chiết xuất từ thảo dược được xem là chất kích thích tăng trưởng, cải thiện đáng kể đường tiêu hóa, giúp tôm, cá lớn nhanh và mang lại hiệu suất cao hơn. Các nhà khoa học cũng đã chứng minh, bổ sung thảo dược trong chế độ ăn của tôm giúp kích thích sự thèm ăn, tăng mức tiêu thụ thức ăn đáng kể. Chẳng hạn, bổ sung bột lá đu đủ vào thức ăn giúp cung cấp enzyme papain, làm tăng khả năng tiêu hóa protein, thúc đẩy tăng trưởng ở tôm sú.
Sử dụng các sản phẩm an toàn môi trường trong nuôi tôm là xu hướng tất yếu – Ảnh: Nguyễn Hoàng Trong
Kích thích miễn dịch
Nhiều hợp chất có nguồn gốc thực vật được tìm thấy có tác dụng kích thích miễn dịch rõ nét trên tôm nuôi. Trong đó, cây Picrorrhiza (thuộc họ Hoa mõm sói) là loại thảo mộc điển hình trong việc chống stress, kích thích miễn dịch cho tôm (Citarasu và cộng sự, 2006). Ngoài ra, lá hương nhu chứa các hợp chất phenollic tan trong nước và các thành phần như eugenol, methyl eugenol và caryophylllene có thể hoạt động như một kháng thể miễn dịch đối với động vật thủy sản (Jayathirtha và Mishra, 2004); Cây me rừng cũng có hoạt tính chống ôxy hóa, kháng khuẩn, kháng nấm và kháng viêm; chất amla trong quả me chứa lượng lớn Vitamin C cũng được xem là một chất kích thích miễn dịch; Chiết xuất từ cây cỏ gà có tác dụng chống lại virus đốm trắng ở tôm sú; giúp tôm sú giảm tới 40% tỷ lệ chết do virus đốm trắng gây ra (Balasubramanian và cộng sự, 2008); Tỏi, trà xanh, gừng hay cỏ mực, sầu đâu, dạ hoa… cũng đã được chứng minh là những chất kích thích miễn dịch hữu hiệu cho tôm, cá nuôi ở các nước châu Á.
Chống vi khuẩn
Khả năng của một số loại thảo mộc và rong biển về hoạt động ức chế vi khuẩn đã được các nhà khoa học nghiên cứu và chứng nhận. Trong đó, chiết xuất của 5 loại thảo mộc gồm cây xương cá, hoa móc tai, anh thảo, ngải cứu và cây kim ngân đã chống lại 13 loại vi khuẩn gây bệnh cho động vật thủy sản. Trong đó, cây xương cá có khả năng chống lại nhiều loại vi khuẩn và cho hiệu quả cao nhất. Chiết xuất từ cây húng quế trong môi trường thí nghiệm có khả năng chống lại 146 loại vi khuẩn bao gồm cả các mầm bệnh trong nuôi trồng thủy sản (Adigozel và cộng sự, 2005).
Chống virus
Các hợp chất từ thảo dược có hoạt tính như là một chất kích thích miễn dịch, có khả năng ức chế hoặc ngăn chặn sự sao chép của virus, làm giảm sự nhân lên của virus trong tế bào vật chủ và tăng khả năng miễn dịch cho vật nuôi. Theo nghiên cứu của Direkbusarakom và cộng sự, năm 1998, cho tôm sú ăn chiết xuất từ cây bìm bịp (cây mảnh cộng) có tỷ lệ sống tới 95% so với nhóm đối chứng là 25% khi tiếp xúc virus đầu vàng (YHV). Trong khi, cây diệp hạ châu (chó đẻ răng cưa) không những có khả năng chống lại virus đầu vàng mà nó còn chống lại virus INHV ở cá và virus đốm trắng ở tôm. Cùng đó, chiết xuất của cây cỏ gà có khả năng chống lại virus đốm trắng mạnh nhất (theo Direkbusarakom, 2004). Rohani và cộng sự, năm 2006 đã thông báo rằng hoa Zataria multiflora là một sự thay thế thích hợp cho Xanh malachite ở các nồng độ 25, 50, 100 ppm.
Chống nấm, kí sinh trùng
Nghiên cứu của Adigozel và cộng sự, năm 2005 đã cho thấy, hai loại nấm là Aspergillus flavus và Fusarium oxyspoum đã được kiểm soát nhờ vào chiết xuất của lá húng quế. Rutin có trong chiết xuất của cây xoan hôi (hương xuân) là một chất chống ôxy hóa mạnh và là chất có khả năng chống stress, ức chế vi khuẩn Vibrio alginolyticus hiệu quả ở động vật giáp xác. Cây Picrorrhiza cũng đã được Citarasu và cộng sự năm 2006, chứng minh là có khả năng chống một số loại ký sinh trùng và giảm stress cho tôm sú.
Một số thảo dược cho các bệnh cụ thể
Tại Việt Nam, VTS1-T là sản phẩm nghiên cứu khoa học đề tài cấp Nhà nước của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, với thành phần chủ yếu gồm các tinh dầu tỏi và sài đất, có tác dụng diệt khuẩn, giúp điều trị các bệnh ăn mòn vỏ kitin, bệnh viêm ruột và bệnh phân trắng của tôm nuôi bán thâm canh và thâm canh với liều dùng 0,2 g/kg tôm/ngày; Cho tôm ăn liên tục 6 – 10 ngày cho đến khi khỏi bệnh. Phòng bệnh bằng cách mỗi tháng cho tôm ăn một đợt 5 ngày liên tục, từ tháng thứ 2 trở đi.
Tỏi là thảo mộc thông dụng nhất và được nhiều người nuôi tôm sử dụng thành công tại nước ta. Kết quả thử tác dụng của các cao tách chiết thảo dược tỏi đều có tác dụng (mẫn cảm) với cả 6 loài vi khuẩn gây bệnh ở nước ngọt và lợ mặn (Bùi Quang Tề, 2006). Theo các nghiên cứu, với hỗn hợp gồm 2 kg tỏi + 2 kg muối + 20 g CuSO4 + 20 g KMnO4 được tạo thành bột nhão, sau đó trộn lẫn với 30 – 50 lít nước rồi rải xuống ao 0,133 ha giúp điều trị bệnh hoặc kiểm soát dịch bệnh. Hoặc xay nhuyễn tỏi rồi trộn cho tôm ăn với liều 3 – 5 g/kg thức ăn giúp phòng bệnh cho tôm hiệu quả.
Theo Lý Thị Thanh Loan và cộng sự, năm 2010, sử dụng chiết xuất từ cây diệp hạ châu với lượng 100 mg/kg trọng lượng tôm chống lại virus đốm trắng, sau thí nghiệm tôm sống sót với tỷ lệ lên tới 96,67%.
>> Với những ưu điểm như sẵn có, an toàn, không gây ô nhiễm môi trường và không gây hại cho vật nuôi cũng như người tiêu dùng, việc sử dụng các chiết xuất từ thảo mộc vào nuôi tôm, cũng như chăn nuôi là xu hướng tất yếu trong tương lai. |
Các tin mới nhất
Các tin cũ cùng mục
- Nuôi tôm hiệu quả hơn với quy trình quản lý nước Mixotrophic(18/08/2021)
- Một số giải pháp kỹ thuật giảm thiểu rủi ro nuôi tôm QCCT kết hợp(18/08/2021)
- Quản lý ao nuôi tôm đất phèn(18/08/2021)
- Phương pháp rửa mặn trong canh tác lúa, tôm(18/08/2021)
- Quản lý tôm càng xanh giai đoạn mùa mưa(18/08/2021)
- Quản lý thức ăn trong nuôi tôm sú thâm canh(18/08/2021)
- Kỹ thuật ương giống và nuôi tôm càng xanh(18/08/2021)
- Tăng khả năng thích nghi cho tôm trước khi thả nuôi(18/08/2021)
Bình luận bài viết