Thứ 4, 18/08/2021 16:13:36 GMT+7

Nuôi tảo đơn bào không khó

Đánh giá bài viết

Tảo là nguồn dinh dưỡng rất quan trọng của động vật thủy sản, thức ăn không thể thiếu ấu trùng tôm. Hiện nay, lượng tảo tự nhiên dùng trong trại sản xuất không đủ cung cấp cho ấu trùng và giống tôm phát triển ở mật độ cao, vì vậy, cần bổ sung tảo từ nuôi trồng.

Giống tảo nuôi

Các loài tảo nuôi phải đảm bảo thành phần dinh dưỡng chứa nhiều axít amin thiết yếu, phải là tảo đơn bào, kích thước nhỏ (

Chuẩn bị môi trường ương nuôi

Tảo Chlorella

Tảo Chlorella  thuộc ngành tảo lục (Chlorophyta) là tảo đơn bào, tế bào hình cầu hoặc hình ô van, không có tiêm mao, không có khả năng di động chủ động. Thích hợp độ mặn trong khoảng 5 – 30%, nhiệt độ 15 – 350C, pH khoảng 7,5 – 8,5.

Môi trường cơ bản: KNO3 (20,22 g/200 ml); NaH2PO4 (12,42 g/200 ml); NaH2PO4.2H2O (1,78 g/200 ml); CaCl2.2H2O (0,294 g/200 ml).

Thành phần vi lượng: H3BO3 0,061g/l; MnCl.4H2O 0,061g/l; ZnSO4.7H2O 0,287 g/l; CuSO4.5H2O 0,024 g/l; (NH4)6Mo.7O24.4H2O 0,01235 g/l.

Cách pha: Cân 0,005 g CH3COONa (natri axetat) hòa tan trong 500 ml nước cất, thêm 10 ml môi trường cơ bản, 1 ml dung dịch vi lượng, thêm nước cất vào đủ 1.000 ml, điều chỉnh pH 5,5 – 7,5 (Theo Nguyễn Đức Lượng, 2006).


Nhiều doanh nghiệp đã chủ động nguồn tảo cho tôm giống – Ảnh: Phan Thanh Cường


Tảo Nannochloropsis oculata

Tảo Nannochloropsis oculata có kích thước khoảng 2 – 4 µm, tế bào có dạng hình cầu và hình trứng. Là tảo đơn bào, không có khả năng di động (Phạm Thị Lam Hồng, 1999).  Có chứa nhiều axit béo không no (HUFA), thích hợp vùng nhiệt đới, dễ nuôi đại trà.

Môi trường cơ bản: Dung dịch 1: KNO3 (89,6 mg/l); KH2PO4 (5,6 mg/l); Na2SiO3.9H2O (30 mg/l); Dung dịch 2: Na2EDTA (4,36 mg/l); FeCl3.6H2O (3,15 mg/l); CuSO4.5H2O (0,01 mg/l); ZnSO4.H2O (0,022 mg/l); CoCl2.6H2O (0,01 mg/l); MnCl2.4H2O (0,18 mg/l); Na2MoO4 .6H2O (0,006 mg/l); Vitamin: B1 (0,1 mg/l), B6 (0,0005 mg/l) và B12 (0,0005 mg/l) (Theo Guilliard, 1975).

Nước biển (25 – 30‰) để nuôi cấy tảo được bơm vào bể lắng và xử lý bằng chlorine 30 ppm, sau khi xử lý sục khí mạnh ngoài trời để chlorine bay hơi hết. Sau 2 ngày, trước khi đưa lên bể lọc, nếu thử còn thấy dư lượng của chlorine thì dùng Natri thiosulfate (Na2S2O3) trung hòa với liều lượng bằng 80% lượng chlorine xử lý ban đầu. Đưa nước vào túi treo tảo (túi treo đã được vệ sinh và sát trùng) với lượng nước 50 lít.

Sử dụng thùng nhựa (20 lít) để vận chuyển tảo từ nơi cấp giống ở nhiệt độ thường. Sau đó tảo được cấy ra các túi treo, tỷ lệ tảo giống theo thể tích nuôi 20%; đồng thời, chế thêm vào từng túi, dung dịch môi trường, vi lượng và vitamin với liều lượng 1 ml/lít nước biển. Duy trì sục khí 24/24 giờ để tránh tảo lắng đọng và kết tủa hóa chất. Thông thường, với nhiệt độ môi trường 25 – 300C, ánh sáng đầy đủ, sau thời gian nuôi cấy 3 – 5 ngày, tảo đạt mật độ cực đại (5 triệu tb/lít trở lên). Có thể sử dụng tiếp làm giống để cấy ra các bể có thể tích lớn hơn (liều lượng 15 – 20%).

Sau 3 – 4 ngày, tảo đạt sinh khối cực đại thì dùng ống xi phông lọc tảo qua vợt dày. Dùng dây nhựa (đường kính tùy theo dòng chảy) để hút tảo, một đầu được buộc bằng túi lưới thu đầu kia cho vào bể hút nhẹ, nước tảo sẽ chảy liên tục trong khoảng thời gian 15 – 30 phút, các tế bào tảo được giữ lại, sau đó tháo túi ra và chuyển sinh khối tảo này vào xô, cứ thế lại tiếp tục thu cho đến khi nước trong bể nuôi tảo còn khoảng 20%, sử dụng môi trường hoặc đạm NPK để nuôi đợt mới. Căn cứ vào chu kỳ phát triển của tảo, người nuôi cần tính toán để lượng tảo luôn đủ cấp cho bể và ao ương ấu trùng tôm, đảm bảo ấu trùng luôn đủ thức ăn và phát triển tốt.

Theo Brown và cộng tác viên (1997), trong tảo đơn bào, hàm lượng protein dao động khoảng 6 – 52%, carbohydrat 5 – 23% và lipid 7 – 23%, là nguồn dinh dưỡng không thể thiếu cho ấu trùng tôm phát triển.
Diệu Châu
Email
Họ tên
Nội dung

Top